Sau ngày giải phóng miền Nam 30/4/75, mẹ tôi từ người đàn bà nội trợ cả ngày chỉ biết có bếp núc, lần đầu tiên ra ngồi chợ tảo tần. Và đây cũng là một cột mốc của gia đình tôi: từ cả đời làm nghề giáo nay học nghề mua bán. Buổi sáng hôm ấy, sau khi bàn bạc với ba tôi, từ sáng sớm, mẹ đã ra chợ với mấy trăm đồng vốn và một cái "xề"(*). Trưa hôm ấy bà về nha, mặt đỏ bừng vì nắng và vì sung sướng đã kiếm được 30 đồng tiền lời từ việc mua đi bán lại mấy chục cam và chuối. Anh em chúng tôi còn nhỏ quá chả biết gì, cũng vui lây vì được mẹ cho một nãi chuối chót. Đó là nãi chuối nằm ở tận cùng của buồng chuối, rất nhỏ, chỉ có vai trái là to, ăn được, còn lại chỉ nhỏ li ti. Niềm vui đó biết đâu còn có cả cay đắng của mẹ và nhất là của ba tôi khi phải từ tầng lớp kẽ sĩ đi đến chỗ "con buôn", vốn là một ý thức hệ còn ảnh hưởng nặng nề vào thời bấy giờ.
Và anh em chúng tôi cùng lớn lên, được học hành đàng hoàng bằng những nãi chuối. Dần dần từng nãi chuối riêng lẻ đã phát triển thành những quầy chuối to chất đầy nhà. Lần đầu khi không còn bán lẻ ngoài chợ, mẹ tôi đã đón những chiếc tàu từ tận Bến Tre để mua chuối xanh đem về "giú" bằng khí đá trong những tấm bạt ni lông to tổ bố. Qua một ngày, chuối dỡ ra còn xanh, cứng nhưng nóng hầm hập. Đem nhúng vào nước lạnh, chỉ sau vài giờ đồng hồ, chuối bằng bắt đầu ửng vàng rất đẹp, sẳn sàng cho các buổi chợ. Những người bán lẻ lại đến tận nhà "đếm" (**) chuối ra chợ bán lại. Họ lựa, họ trả giá nhưng lúc nào cũng bỏ lại những nãi chuối chót vì có ai mua mà bán. Lúc đó, chuối chót ở nhà tôi nhiều vô kể, chả bù khi nhận được nãi chối chót đầu tiên, mấy anh em cứ giành nhau, có đứa khóc cả ngày vì chỉ được có nửa trái. Đầu tiên, chúng tôi cũng mang những nãi chuối chót đem giấu làm của riêng. Lâu dần, chúng bị bỏ lăn lóc khắp nhà, chín rục. Nội tôi phải đi luợm lại và làm ra chuối khô.
Ngày xưa, có khi đò về khuya, dù đang ngon giấc cả nhà cũng bật cả dậy để chỡ chuối từ bến đò về nhà. Tôi vẫn còn nhớ đứa em gái khóc thút thít vì bị gọi giật dậy ngồi trên xe cho tôi kéo, khi đẩy xe đầy ấp chuối xanh nó tì nguời vào xe, chân cứ buớc nhưng đã ngũ gục rồi…Những nãi chuối đưa chúng tôi đi hết tuổi ấu thơ vào cả đại học. Bây giờ, ngồi lại với nhau những ký ức về những nãi chuối cứ kể hoài không hết. Còn tôi, cho đến bây giờ những khi nhìn nãi chuối tôi như cứ thấy nao nao. Những nãi chuối chót bây giờ còn được đem ra bán ngoài chợ, nhìn thấy chúng tôi thấy cả tuổi thơ và niềm vui con trẻ của mình. Hồi đó, khi trường biểu làm lý lịch thì tôi khai nghề nghiệp cha là giáo viên, mẹ là bán trái cây, mặc dù mẹ tôi chỉ bán có duy nhất chuối. Với tôi chuối là vua của trái cây.
Vợ tôi hay mắng con sao không ưa ăn chuối mà chỉ thích ăn toàn bôm, nho Tây, Tàu. Có hôm, nàng mua chỉ một nãi chuối cau thật ngon nhưng phải ăn hơn một tuần mới hết. Tôi muốn kể cho con nghe chuyện về những nãi chuối nhưng sợ rằng chúng không hiểu. Thây kệ, chúng không thích ăn chuối thì thôi, mua thứ khác. Hôm qua thằng con lớn bảo mẹ ơi sao mẹ không mua chuối ăn con thèm quá, thằng nhỏ hưởng ứng phải đó mẹ. Tôi đích thân đi mua ngay một nãi chuối mà trong lòng vui vô cùng.
LÊ DUY
(*) xề: một loại thúng nhưng đường kính to và nông. Làm bằng tre đan.
(**) đếm: từ dùng để chỉ việc mua sỉ ở Nam bộ. Còn dùng từ khác nữa là "bổ" (bổ hàng)
No comments:
Post a Comment